VIETNAMESE

Gia đình đơn thân
Gia đình đơn thân thu nhập thấp và gia đình chỉ có ông bà và cháu có thể được nhận tiền hỗ trợ phúc lợi.
Tiền hỗ trợ phúc lợi
- Gia đình đơn thân thu nhập thấp và gia đình chỉ có ông bà và cháu có thể nhận được tiền trợ cấp phúc lợi sau. Trường hợp đối tượng được hỗ trợ căn cứ vào Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân đang nhận hỗ trợ theo quy định pháp luật khác trong đó có Luật Đảm bảo mức sống cơ bản quốc dân v.v., không được nhận tiền trợ cấp căn cứ vào Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân thuộc phạm vi đó. Tuy nhiên, có thể được nhận tiền nuôi con nhỏ theo Điểm 4 Khoản 1 Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân [Khoản 1 và Khoản 2 Điều 12 Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân, Khoản 1 Điều 13 Nghị định thi hành Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân, Điều 6 Quy tắc thi hành Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân và Phạm vi đối tượng được hỗ trợ theo diện gia đình đơn thân năm 2023 (Thông tư số 2022-57 của Bộ Bình đẳng giới và Gia đình ban hành và có hiệu lực ngày 1.1.2023)].

Loại hình hỗ trợ

Đối tượng hỗ trợ

Số tiền hỗ trợ

Tiền nuôi con nhỏ

Con dưới 18 tuổi của gia đình có số tiền được công nhận là thu nhập từ 60% trở xuống của thu nhập trung bình tiêu chuẩn

Mỗi một người con nhận 200.000 won/tháng

Tiền bổ sung nuôi con nhỏ

Cháu và con từ 5 tuổi trở xuống của gia đình cha mẹ đơn thân chưa lập gia đình từ 35 tuổi trở lên có số tiền được công nhận là thu nhập từ 60% trở xuống của thu nhập trung bình tiêu chuẩn

Mỗi một người con nhận 50.000 won/tháng

Con từ 5 tuổi trở xuống của gia đình cha mẹ đơn thân tuổi thanh thiếu niên từ 25 đến 34 tuổi có số tiền được công nhận là thu nhập từ 60% trở xuống của thu nhập trung bình tiêu chuẩn

Mỗi một người con nhận 100.000 won/tháng

Con từ 6 đến dưới 18 tuổi của gia đình cha mẹ đơn thân tuổi thanh thiếu niên từ 25 đến 34 tuổi có số tiền được công nhận là thu nhập từ 60% trở xuống của thu nhập trung bình tiêu chuẩn

Mỗi một người con nhận 50.000 won/tháng

Tiền hỗ trợ giáo dục trẻ nhỏ (tiền dụng cụ học tập)

Con là học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông của gia đình có số tiền được công nhận là thu nhập từ 60% trở xuống của thu nhập trung bình tiêu chuẩn

Mỗi một người con nhận 83.000 won/năm

Sinh hoạt phí

(Tiền hỗ trợ sinh hoạt)

Gia đình có số tiền được công nhận là thu nhập từ 60% trở xuống của thu nhập trung bình tiêu chuẩn trong số các gia đình được nhận vào cơ sở phúc lợi dành cho gia đình đơn thân

Mỗi hộ gia đình nhận 50.000 won/tháng

- Gia đình đơn thân có thể vay vốn phúc lợi, nội dung chi tiết về vấn đề này có thể được kiểm tra tại <Hỗ trợ gia đình đơn thân> của nội dung này.
Chi trả tiền trợ cấp phúc lợi
- Tùy theo thủ tục xin tiền trợ cấp phúc lợi, tiền trợ cấp phúc lợi được quyết định có thể được chi trả từ tháng của ngày nộp đơn xin trợ cấp (Khoản 5 Điều 12 Nghị định thi hành Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân).
Cấm tịch thu tiền trợ cấp phúc lợi
- Căn cứ theo Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân, tiền trợ cấp phúc lợi và các quyền liên quan không thể được chuyển nhượng cho người khác hoặc cung cấp để làm tài sản thế chấp, người khác không thể tịch thu khoản tiền này (Khoản 1 Điều 27 Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân).
- Không thể tịch thu khoản vay liên quan đến tiền gửi của tài khoản được chỉ định làm tài khoản nhận tiền trợ cấp phúc lợi (Khoản 2 Điều 27 Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân).
Hình phạt đối với người hưởng lợi bất chính
- Người nhận tiền trợ cấp phúc lợi hoặc khiến cho người khác nhận tiền trợ cấp phúc lợi bằng cách gian dối hoặc bằng cách bất chính khác (sau đây gọi là “người hưởng lợi bất chính”) sẽ bị xử phạt tù tối đa 1 năm, phạt tiền tối đa 10 triệu won, tạm giam hoặc xử phạt hành chính (Khoản 4 Điều 29 Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân).
- Trường hợp nhận tiền trợ cấp phúc lợi hoặc khiến cho người khác nhận tiền trợ cấp phúc lợi bằng cách gian dối hoặc bằng cách bất chính khác, cơ quan hỗ trợ đã chi trả tiền trợ cấp phúc lợi có thể thu lại toàn bộ hoặc một phần khoản tiền đó từ người đã nhận tiền trợ cấp phúc lợi đó hoặc từ người đã khiến cho người khác nhận tiền trợ cấp phúc lợi (Khoản 1 Điều 25.2 Luật Hỗ trợ gia đình đơn thân).