Ý nghĩa của việc sa thải không đúng luật và đối tượng xin trợ cấp
Ý nghĩa của sa thải không đúng luật
- “Sa thải không đúng luật” là sa thải không có lý do chính đáng (Khoản 1 Điều 23 「Luật Tiêu chuẩn lao động」).
- Đối với trường hợp người sử dụng lao động sa thải người lao động mà không có lý do chính đáng thì người lao động có thể xin cứu trợ lên Ủy ban Lao động (Điều 28 (1) 「Luật Tiêu chuẩn lao động」).
Việc đại diện cứu trợ quyền lợi của Luật sư lao động được công nhận
Điều kiện của đại diện cứu trợ quyền lợi
- Trường hợp người lao động xin cứu trợ sa thải không chính đáng tại Ủy ban Lao động thì Luật sư hoặc Luật sư lao động được công nhận có thể đại diện thực hiện công việc cứu trợ quyền lợi (Điều 6-2 (1) 「Luật Ủy ban Lao động」).
· Trường hợp người lao động xin cứu trợ sa thải không chính đáng có mức lương bình quân tháng dưới 3 triệu won thì Luật sư ủy thác hoặc Luật sư lao động được công nhận theo Điều 5 (1) 「Quy tắc thi hành Luật Ủy ban Lao động」nhận được yêu cầu từ người lao động đó và một trong hai Luật sư có thể đại diện công việc cứu trợ quyền lợi tương ứng bằng cách bổ nhiệm người đại diện cứu trợ quyền lợi của vụ việctương ứng (Điều 3 (1), Điều 4 「Quy tắc thi hành Luật Ủy ban Lao động」 và 「Thông báo lương bình quân tháng tiêu chuẩn của người có thể nộp đơn xin bổ nhiệm người đại diện công việc cứu trợ quyền lợi」).
Xin đại diện công việc cứu trợ quyền lợi
- Đăng ký bổ nhiệm người đại diện gồm Đơn xin bổ nhiệm người đại diện phụ trách công tác đảm bảo, hỗ trợ quyền lợi và kèm theo tài liệu chứng minh là đối tượng xin bổ nhiệm người đại diện công việc cứu trợ quyền lợi theo Điều 4 「Quy tắc thi hành Luật Ủy ban Lao động」 và nộp cho Ủy ban Lao động liên quan (Điều 6-2 (2) 「Luật Ủy ban Lao động」, Điều 3 (5) 「Quy tắc thi hành Luật Ủy ban Lao động」).
Tổng quan về thủ tục cứu trợ sa thải không chính đáng
Tổng quan về thủ tục cứu trợ sa thải không chính đáng
- Tiến trình xin cứu trợ đối với sa thải không chính đáng thông qua việc đăng ký cứu trợ và tố tụng hành chính với Ủy ban Lao động: [Nộp đơn đăng ký → Điều tra → Thẩm vấn → Phán quyết → (Tái thẩm) → (Tố tụng hành chính) → Xác nhận → Kết thúc]
- Người lao động bị sa thải không chính đáng có thể gửi đơn xin cứu trợ tới Ủy ban Lao động và nộp đơn tố tụng hành chính và đơn tố tụng yêu cầu xác nhận vô hiệu sa thải riêng tới Tòa án.
Cứu trợ sa thải không chính đáng tại Ủy ban Lao động địa phương (Sơ thẩm)
- Nếu người sử dụng lao động sa thải người lao động không chính đáng thì người lao động có thể nộp đơn xin cứu trợ lên Ủy ban Lao động trong vòng 3 tháng kể từ ngày bị sa thải không chính đáng (Điều 28 「Luật Tiêu chuẩn lao động」).
- Nếu trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận thông báo về Lệnh cứu trợ hoặc Quyết định bác đơn mà không xin tái thẩm thì lệnh cứu trợ, quyết định bác đơn đó được xác nhận hoàn tất (Điều 31 (3), Điều 31 (1) 「Luật Tiêu chuẩn lao động」).
Cứu trợ sa thải không chính đáng tại Ủy ban Lao động Trung Ương (Tái thẩm)
- Người sử dụng lao động hoặc người lao động không phục tùng Lệnh cứu trợ hoặc Quyết định bác đơn của Ủy ban Lao động địa phương theoLuật Ủy ban Lao động」 có thể xin tái thẩm tại Ủy ban Lao động Trung Ương trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được Lệnh cứu trợ hoặc Quyết định bác đơn (Điều 31 (1) 「Luật Tiêu chuẩn lao động」).
- Nếu trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản phán quyết tái thẩm mà không đưa ra đơn tố tụng hành chính thì Lệnh cứu trợ, Quyết định bác đơn và Phán quyết tái thẩm đó được xác nhận hoàn tất (Điều 31 (3), Điều 31 (1) 「Luật Tiêu chuẩn lao động」).
Cứu trợ sa thải không chính đáng tại Tòa án (Tố tụng hành chính)
- Đối với Phán quyết tái thẩm của Ủy ban Lao động Trung Ương, người sử dụng lao động và người lao động có thể đưa ra đơn khởi kiện theo quy định của 「Luật Tố tụng hành chính」 trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản Phán quyết tái thẩm (Điều 31 (2) 「Luật Tiêu chuẩn lao động」).
- Trường hợp không đồng ý với phán quyết cuối cùng của Tòa án sơ thẩm, người lao động và người sử dụng lao động có thể kháng cáo bằng cách nộp đơn kháng cáo lên Tòa án sơ thẩm trong vòng 2 tuần (có thể trước khi bản phán quyết được đưa ra) kể từ ngày bản phán quyết được đưa ra (Điều 8 「Luật Tố tụng hành chính」 và Nguyên tắc thuộc Điều 390 (1), Điều 396 (1), Điều 397 (1) 「Luật Tố tụng dân sự」).
- Trường hợp không đồng ý với phán quyết cuối cùng do Tòa án cấp cao tuyên án và kết quả cuối cùng tại phiên tòa thứ 2 của Hội đồng thẩm phán Tòa án địa phương, người lao động và người sử dụng lao động có thể nộp đơn kháng cáo và kháng cáo lên Tòa án phúc thẩm trong vòng 2 tuần (có thể thực hiện trước khi bản phán quyết được đưa ra) kể từ ngày bản phán quyết được đưa ra (Điều 8 「Luật Tố tụng hành chính」và Điều 422 (1), Điều 425, Điều 396 (1), Điều 397 (1) 「Luật Tố tụng dân sự」).
※ Kháng cáo chỉ có thể được thực hiện khi lý do kháng cáo là có vi phạm về Hiến pháp, Pháp luật, Lệnh và Quy tắc gây ảnh hưởng đến phán quyết (Điều 8 「Luật Tố tụng hành chính」 và Điều 423 「Luật Tố tụng dân sự」).
Tố tụng xác nhận vô hiệu sa thải không chính đáng (Tố tụng dân sự)
Nộp đơn xác nhận sự vô hiệu của việc sa thải
- Người lao động bị sa thải không chính đáng có thể đưa đơn tố tụng yêu cầu xác nhận vô hiệu sa thải lên Tòa án.
- Đơn tố tụng xác nhận vô hiệu sa thải là đơn yêu cầu xác nhận vô hiệu sa thải được thực hiện đơn phương từ phía người sử dụng lao động.
- Đơn xin cứu trợ sa thải không chính đáng và Đơn tố tụng xác nhận vô hiệu sa thải về mặt dân sự là hai chế độ riêng biệt nên có thể lựa chọn một trong hai hoặc thực hiện đồng thời.
- Trường hợp không đồng ý với phán quyết cuối cùng của Tòa án sơ thẩm, người lao động và người sử dụng lao động có thể kháng cáo bằng cách nộp đơn kháng cáo lên Tòa án sơ thẩm trong vòng 2 tuần (có thể thực hiện trước khi bản phán quyết được đưa ra) kể từ ngày bản phán quyết được đưa ra. (Nguyên tắc thuộc Điều 390 (1), Điều 396 (1), Điều 397 (1) 「Luật Tố tụng dân sự」).
- Trường hợp không đồng ý với phán quyết cuối cùng do Tòa án cấp cao tuyên án và kết quả cuối cùng tại phiên tòa thứ 2 của Tòa án địa phương, người lao động và người sử dụng lao động có thể nộp đơn kháng cáo và kháng cáo lên Tòa án xét xử kháng cáo trong vòng 2 tuần (có thể trước khi bản phán quyết được đưa ra) kể từ ngày bản phán quyết được đưa ra (Điều 422 (1), Điều 425, Điều 396 (1), Điều 397 (1) 「Luật Tố tụng dân sự」).
※ Kháng cáo chỉ có thể được thực hiện khi lý do kháng cáo là có vi phạm về Hiến pháp, Pháp luật, Lệnh và Quy tắc gây ảnh hưởng đế phán quyết (Điều 8 「Luật Tố tụng hành chính」 và Điều 423 「Luật Tố tụng dân sự」).