Trường hợp có quy định hạn chế về mặt thủ tục
Hiệu lực của Quy định hạn chế về mặt thủ tục
- Tòa án tối cao xem việc sa thải được thực hiện trong khi vi phạm quy định hạn chế về mặt thủ tục là vô hiệu ngoại trừ trường hợp ngoại lệ là lỗi về mặt thủ tục được sửa chữa (Phán quyết số 90 Da 8077 ngày 9.7.1991 của Tòa án Tối cao).
- Ngay cả khi tồn tại quy định hạn chế về mặt thủ tục, nếu quy định thông báo trước về thực tế nghi ngờ bị kỷ luật hoặc tường trình của người bị kỷ luật là tự ý đặt ra thì người sử dụng lao động không có nghĩa vụ thực hiện các thủ tục đó (Phán quyết số 90 Daka 27042 ngày 9.4.1991 của Tòa án Tối cao).
Hội đồng kỷ luật
- Trong quy tắc tìm việc làm v.v., trường hợp có yêu cầu thông qua ý kiến của Hội đồng kỷ luật mà không thực hiện thủ tục này và xử ký kỷ luật thì theo nguyên tắc cũng bị vô hiệu (Phán quyết số 95 Nu 12613 ngày 9.2.1996 của Tòa án Tối cao).
Thông báo trước
- Thông báo cho biết về việc tiến hành thủ tục kỷ luật phải được thực hiện trực tiếp đối với người là đối tượng bị kỷ luật không có hoàn cảnh đặc biệt gì (Phán quyết số 92 Da 50263 ngày 13.7.1993 của Tòa án Tối cao).
· Thông báo trước phải được thực hiện đối với bản thân người lao động trừ khi người đó không thể được thông báo do hành tung không rõ ràng, nếu không thì được coi là có thiếu sót về điều kiện thông báo trước sa thải hợp pháp (Phán quyết số 92 Da 50263 ngày 13.7.1993 của Tòa án Tối cao).
· Thông báo trước cho đồng nghiệp cùng bộ phận với đối tượng bị kỷ luật cũng không hợp pháp (Phán quyết số 92 Da 50263 ngày 13.7.1993 của Tòa án Tối cao).
Cho cơ hội thanh minh
- Nếu quy định hạn chế về mặt thủ tục có quy định rằng phải cho người lao động là đối tượng kỷ luật cơ hội trình bày thì phải cho đối tượng đó cơ hội trình bày và việc trình bày đó không nhất thiết phải có (Phán quyết số 91 Da 30620 ngày 28.9.1993 của Tòa án Tối cao).
· Trường hợp đã cho người lao động là đối tượng kỷ luật cơ hội trình bày nhưng người lao động không trình bày thì có thể thực hiện thủ tục kỷ luật chỉ bằng thông báo (Phán quyết số 91 Da 30620 ngày 28.9.1993 của Tòa án Tối cao).
- Nếu Ủy bản kỷ luật thông báo thực tế nguy cơ kỷ luật cho đối tượng kỷ luật và cho họ cơ hội trình bày thì không cần thiết phải phải thực hiện các biện pháp để đảm bảo rằng đối tượng kỷ luật thực hiện trình bày đầy đủ về nguy cơ đó thông qua việc gửi thông báo chi tiết về thực tế nguy cơ đó. (Phán quyết số 94 Nu 11491 ngày 14.7.1995 của Tòa án Tối cao).
Trình tự tái thẩm
- Trường hợp phải trải qua thủ tục tái thẩm, nếu bỏ qua thủ tục này thì việc sa thải tương ứng sẽ bị vô hiệu (Phán quyết số 94 Da 33552 ngày 10.3.1995 của Tòa án Tối cao).
Sửa chữa khuyết điểm trong thủ tục kỷ luật
- Thủ tục tái thẩm đối với xử lý kỷ luật là toàn bộ thủ tục xử lý kỷ luật cùng với thủ tục kỷ luật ban đầu tạo thành một thủ tục kỷ luật duy nhất nên tính công minh của thủ tục đó cũng phải được đánh giá liên quan đến toàn bộ quá trình kỷ luật. Vì vậy, ngay cả khi có lỗi vi phạm thủ tục trong quá trình kỷ luậtban đầu, nếu được sửa chữa trong quá trình tái thẩm thì lỗi vi phạm thủ tục đó coi như là được sửa chữa (Phán quyết số 98 Du 4672 ngày 26.3.1999 của Tòa án Tối cao).
Tham gia Công đoàn
- Việc xử lý nhân sự nói chung là bao gồm toàn bộ việc xử lý mang đến sự thay đổi, biến mất quan hệ lao động như điều động nhân sự, thưởng phạt, sa thải, v.v. nên nếu nhân sự liên quan đến cán bộ công đoàn nói rằng trong thỏa thuận công đoàn có quy định về “quyết định thông qua thỏa thuận” với tổ chức công đoàn thì việc xử lý nhân sự không thông qua thủ tục thỏa thuận này về mặt nguyên tắc là bị vô hiệu (Phán quyết số 97 Da 6926 ngày 25.4.1997 của Tòa án Tối cao).
- Tuy nhiên, việc sa thải không thông qua “thủ tục thỏa thuận” với tổ chức Công đoàn được quy định trên thỏa ước tập thể cũng bị vô hiệu (Phán quyết số 95 Da 53102 ngày 23.4.1996 của Tòa án Tối cao).
Thỏa thuận miễn trách
- Trong trường hợp giữa người lao động và người sử dụng lao động có thỏa thuận miễn trách rằng sẽ kết thúc hành vi tranh chấp và không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì về dân sự, hình sự đối với tất cả hành vi liên quan đến hành vi tranh chấp sau này, thì lúc này cần phải xem xét rằng phạm vi của miễn trách là miễn trách đối với cả hành vi phát sinh không thể tránh khỏi sau này do hành vi dẫn đến hành vi tranh chấp và hành vi tranh chấp.