Nuôi dạy trẻ gia đình đa văn hóa
Nuôi dạy trẻ gia đình đa văn hóa
- Khi giáo dục, nuôi dạy thiếu nhi và thanh thiếu niên, không được phân biệt trẻ gia đình đa văn hóa (Khoản 1 Điều 10, Luật hỗ trợ gia đình đa văn hóa).
- Cung cấp hỗ trợ cần thiết để nâng cao khả năng ngôn ngữ như hỗ trợ học tập và giáo trình tiếng Hàn, tiếng mẹ đẻ của bố hay mẹ là người kết hôn nhập cư dành cho trẻ dưới 18 tuổi của gia đình đa văn hóa trước khi vào học tiểu học (Khoản 3 Điều 10, Luật hỗ trợ gia đình đa văn hóa).
Trường hợp đặc biệt nhận giáo dục miễn phí
- Nhà nước và tổ chức tự trị địa phương cung cấp giáo dục miễn phí dành cho đối tượng trẻ là con của gia đình đa văn hóa thuộc các trường hợp sau (Khoản 2 Điều 34, Luật nuôi dạy trẻ và Khoản 1 Điều 22, Thông tư Luật nuôi dạy trẻ).
· Trẻ trên 3 tuổi tính theo ngày 1 tháng 1 hàng năm: được học chương trình chung tại nhà trẻ (trẻ được 3 tuổi trong thời gian từ ngày 2 tháng 1 đến ngày 1 tháng 3, được học chương trình chung tại nhà trẻ)
· Trẻ em dưới 3 tuổi tính theo ngày 1 tháng 1 hàng năm: được chăm sóc theo chương trình chăm sóc trẻ tại nhà trẻ (không tính chương trình chung)
- Nhà nước và tổ chức tự trị địa phương xây dựng, vận hành nhà trẻ chăm sóc trẻ gia đình đa văn hóa mong muốn được giáo dục miễn phí (Khoản 6 Điều 34, Luật nuôi dạy trẻ).
Dịch vụ chăm sóc trẻ
Dịch vụ chăm sóc trẻ
- "Dịch vụ chăm sóc trẻ" là dịch vụ bảo vệ và chăm sóc trẻ dưới 12 tuổi được cung cấp cho từng cá nhân tại nơi cư trú (Điểm 1 và Điểm 3 Điều 2, Luật hỗ trợ chăm sóc trẻ).
- Trừ trường hợp bị thiếu kinh phí hay có lý do hợp lý không thể chi trả cho người chăm sóc trẻ, con cái của gia đình đa văn hóa đều được ưu tiên sử dụng dịch vụ chăm sóc trẻ (Điểm 5 Điều 13.2, Luật hỗ trợ chăm sóc trẻ).
※ Trường hợp gia đình đa văn hóa bị tan rã do lí do ly hôn, con cái đã là thành viên của gia đình vẫn được áp dụng nội dung trên (Điều 14.2, Luật hỗ trợ gia đình đa văn hóa).