Hạn chế thụ hưởng trợ cấp thất nghiệp dựa trên hành vi bất chính
Điều kiện hạn chế thụ hưởng trợ cấp thất nghiệp dựa trên hành vi bất chính
- Người có ý định hoặc đã nhận được trợ cấp thất nghiệp bằng cách lừa dối hoặc có các hành vi bất chính khác sẽ không thể nhận trợ cấp thất nghiệp bắt đầu từ ngày nhận hoặc có ý định nhận trợ cấp đó (Khoản 1 Điều 61 Luật chính và Khoản 1 Điều 68 Luật chính「Luật bảo hiểm thất nghiệp」).
- Tuy nhiên, sau khi chuyển nơi làm việc có liên quan đến trợ cấp đó, trong trường hợp nhận được tư cách thụ hưởng mới, có thể nhận được trợ cấp thất nghiệp dựa trên tư cách thụ hưởng đó (Ngoại trừ Khoản 1 Điều 61 và Khoản 1 Điều 68 「Luật bảo hiểm thất nghiệp」).
Hành vi bất chính được giảm nhẹ hạn chế hưởng thụ của trợ cấp thất nghiệp
- Giả mạo hoặc có phương pháp bất chính khác tương ứng với bất kỳ một trong những nội dung sau sẽ không nhận được trợ cấp trong thời gian đối tượng chứng nhận thất nghiệp, và vẫn nhận được trợ cấp khuyến khích tìm việc (Khoản 2 Điều 61 Luật chính, Khoản 2 Điều 68 Luật chính「Luật bảo hiểm thất nghiệp」, và Điều 80 「Lệnh thi hành Luật bảo hiểm thất nghiệp」).
· Không khai báo hoặc khai báo sai sự thật về việc làm việc trong thời gian đối tượng chứng nhận thất nghiệp khi đăng ký chứng nhận thất nghiệp
· Khai báo sai sự thật về nội dung hoạt động tìm việc trong thời gian đối tượng chứng nhận thất nghiệp khi đăng ký chứng nhận thất nghiệp
- Tuy nhiên, trường hợp hành vi phạm xảy ra 2 lần trở lên sẽ không thể nhận trợ cấp thất nghiệp bắt đầu từ ngày nhận hoặc có ý định nhận trợ cấp đó (Ngoại trừ Khoản 2 Điều 61 và Khoản 2 Điều 68「Luật bảo hiểm thất nghiệp」).
Hiệu quả hạn chế thụ hưởng trợ cấp thất nghiệp dựa trên hành vi bất chính
Hiệu quả hạn chế thụ hưởng trợ cấp tìm việc
- Trường hợp người có ý định hoặc đã nhận được trợ cấp thất nghiệp bằng cách lừa dối hoặc các hành vi bất chính khác không được nhận trợ cấp, trợ cấp tìm việc được xem như đã được cấp khi Khoản 3 và Khoản 4 Điều 50 「Luật bảo hiểm thất nghiệp」 được áp dụng (Khoản 3 Luật 61「Luật bảo hiểm thất nghiệp」).
- Trường hợp người có ý định hoặc đã nhận được trợ cấp thất nghiệp bằng cách lừa dối hoặc có các hành vi bất chính khác không được nhận trợ cấp tìm việc, nhưng trợ cấp tìm việc của mức trợ cấp không được nhận sẽ xem như đã được cấp khi Khoản 2 Điều 63「Luật bảo hiểm thất nghiệp」 được áp dụng (Khoản 4 Điều 61 「Luật bảo hiểm thất nghiệp」).
※ Dù đã có quy định về tư cách nhận trợ cấp mới như trên mà đã nhận hoặc định nhận trợ cấp tìm việc bằng cách giả mạo hoặc phương pháp bất chính khác thì sẽ hồi tố kể từ ngày đã khai báo thất nghiệp hoặc ngày nhận trợ cấp tìm việc và không nhận được trợ cấp tìm việc từ 3 lần trở lên trong 10 năm. Người đó sẽ không thể được chi trả tiền trợ cấp tìm việc kể từ ngày nhận tiền trợ cấp đó hoặc ngày khai báo thất nghiệp bằng cách gian dối hay biện pháp bất chính khác đến thời hạn được phân loại như dưới đây (Khoản 5 Điều 61「Luật Bảo hiểm thất nghiệp」, Điều 80.2 「Thông tư thi hành Luật Bảo hiểm thất nghiệp」).
√ Trường hợp số lần không nhận được trợ cấp thất nghiệp là 3 lần: 1 năm
√ Trường hợp số lần không nhận được trợ cấp thất nghiệp là 4 lần: 2 năm
√ Trường hợp số lần không nhận được trợ cấp thất nghiệp là 5 lần: 3 năm
Hiệu quả hạn chế thụ hưởng trợ cấp khuyến khích tìm việc
- Trường hợp người có ý định hoặc đã nhận được trợ cấp thất nghiệp bằng cách lừa dối hoặc có các hành vi bất chính khác không được nhận trợ cấp khuyến khích tìm việc và trợ cấp tìm việc ban đầu, trợ cấp khuyến khích tìm việc ban đầu không được nhận đó sẽ xem như đã được cấp khi Khoản 4 Điều 64「Luật bảo hiểm thất nghiệp」được áp dụng (Khoản 3 Điều 68「Luật bảo hiểm thất nghiệp」).
Xử phạt về thụ hưởng bất chính trợ cấp thất nghiệp
Xử phạt vi phạm
- Người nhận được trợ cấp thất nghiệp bằng cách lừa dối hoặc các hành vi bất chính khác bị phạt tù 1 năm trở xuống hoặc bị phạt tiền mặt 10 triệu won (Khoản 2 Điều 116 「Luật bảo hiểm thất nghiệp」).