Khai báo/Kiện tội phạm bạo lực gia đình
Khai báo
- Bất cứ ai biết về tội phạm bạo lực gia đình có thể khai báo cho cơ quan điều tra (ví dụ: sở cảnh sát, đồn cảnh sát, v.v.) (Khoản 1 Điều 4 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Ngoài ra, nếu người thuộc một trong các trường hợp sau đây biết được hành vi bạo lực gia đình trong khi đang thi hành công vụ, phải báo ngay cho cơ quan điều tra, trừ trường hợp có lý do chính đáng (Khoản 2 Điều 4 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
1. Người lao động và người đứng đầu các tổ chức chịu trách nhiệm giáo dục và bảo vệ trẻ em
2. Nhân viên y tế và người đứng đầu cơ sở y tế phụ trách điều trị trẻ em, người già từ 60 tuổi trở lên và những người mất năng lực phán đoán bình thường khác
3. Người lao động và người đứng đầu các cơ sở phúc lợi dành cho người già theo Luật Phúc lợi người cao tuổi, các cơ sở phúc lợi trẻ em theo Luật Phúc lợi trẻ em, và các cơ sở phúc lợi dành cho người khuyết tật theo Luật Phúc lợi người khuyết tật
4. Cán bộ chuyên môn và người đứng đầu Trung tâm Hỗ trợ Gia đình Đa văn hóa theo Luật Hỗ trợ gia đình đa văn hóa
5. Người môi giới hôn nhân quốc tế và nhân viên làm việc trong cùng lĩnh vực đó theo Luật Quản lý kinh doanh môi giới hôn nhân
6. Đội cứu hộ theo Luật khung về Dịch vụ cứu hỏa, nhân viên cấp cứu
7. Các công chức nhà nước về phúc lợi xã hội theo Luật Dịch vụ phúc lợi xã hội
8. Người lao động và người đứng đầu các trung tâm hỗ trợ sức khỏe gia đình theo Luật khung về Sức khỏe gia đình
※ Nếu người thuộc một trong các trường hợp sau đây biết được hành vi bạo lực gia đình trong khi đang thi hành công vụ mà không trình báo thì sẽ bị phạt tiền tối đa 3 triệu won (Điểm 1 Điều 66 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Ngoài ra, nếu nhân viên tư vấn làm việc tại cơ quan và người đứng đầu cơ quan dưới đây biết được tội phạm bạo lực gia đình thông qua tham vấn với nạn nhân hoặc người đại diện hợp pháp của nạn nhân, phải báo cáo ngay lập tức trừ khi có sự phản đối rõ ràng từ nạn nhân bạo lực gia đình. Các cơ quan gồm có các trung tâm tư vấn trẻ em theo Luật Phúc lợi trẻ em, các trung tâm tư vấn liên quan đến bạo lực gia đình và các cơ sở bảo vệ theo Luật Phòng chống bạo lực gia đình và Bảo vệ nạn nhân, và các trung tâm tư vấn và cơ sở bảo vệ nạn nhân bạo lực tình dục theo Luật Phòng chống bạo lực tình dục và Bảo vệ nạn nhân (Khoản 3 Điều 4 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
Khởi kiện
- Nạn nhân hoặc người đại diện hợp pháp của nạn nhân có quyền khởi kiện người thực hiện tội phạm bạo lực gia đình và đồng phạm là thành viên gia đình (sau đây gọi là “người phạm tội bạo lực gia đình”). Trong trường hợp người đại diện hợp pháp của nạn nhân là người phạm tội bạo lực gia đình hoặc đồng phạm phạm tội bạo lực gia đình thì người thân của nạn nhân có thể khởi kiện (Khoản 1 Điều 6 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Nạn nhân có thể khiếu nại ngay cả khi tội phạm bạo lực gia đình có quan hệ trực hệ với mình (cha, mẹ v.v.) hoặc quan hệ trực hệ của vợ/chồng (bố mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, v.v.) (Khoản 2 Điều 6 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Mặt khác, nếu người bị hại không có người đại diện theo pháp luật hoặc người thân để khiếu nại, nếu bên liên quan nộp đơn thì Viện kiểm sát phải chỉ định người có quyền kiện trong thời hạn 10 ngày (Khoản 3 Điều 6 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
Thủ tục xử lý tội phạm bạo lực gia đình
Cấp cảnh sát
- Biện pháp cấp cứu
· Sĩ quan cảnh sát tư pháp nhận được trình báo về một tội phạm bạo lực gia đình đang diễn ra phải ngay lập tức đến hiện trường và thực hiện một trong các biện pháp sau (Điều 5 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
1. Ngăn chặn hành vi bạo lực, tách biệt thủ phạm và nạn nhân bạo lực gia đình và điều tra tội phạm
2. Đưa nạn nhân đến trung tâm tư vấn bạo lực gia đình hoặc cơ sở bảo vệ (chỉ áp dụng nếu nạn nhân đồng ý)
3. Chuyển trực tiếp nạn nhân cần cấp cứu đến cơ sở y tế
4. Thông báo có thể đề nghị các biện pháp tạm thời (Điều 8 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình) trong trường hợp tái diễn hành vi bạo lực
- Biện pháp tạm thời khẩn cấp
· Nếu có nguy cơ tái diễn tội phạm bạo lực gia đình bất chấp các biện pháp khẩn cấp, và không thể đạt được phán quyết của tòa án về các biện pháp tạm thời do nhu cầu khẩn cấp, sĩ quan cảnh sát tư pháp có thể xử lý theo bất kỳ trường hợp nào sau đây theo yêu cầu của nạn nhân hoặc người đại diện hợp pháp của nạn nhân (sau đây gọi là “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời”) (Khoản 1 Điều 8.2, Điểm 1, Điểm 2, Điểm 3 Khoản 1 Điều 29 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
√ Cách ly, bao gồm cả đuổi ra khỏi nơi ở hoặc phòng ở của nạn nhân hoặc thành viên gia đình
√ Cấm tiếp cận trong phạm vi 100 mét tính từ nơi ở, nơi làm việc, v.v. của nạn nhân hoặc thành viên gia đình
√ Cấm sử dụng viễn thông để tiếp cận nạn nhân hoặc thành viên gia đình (Điểm 1 Điều 2 Luật khung về Điện tử viễn thông)
· Khi sĩ quan cảnh sát tư pháp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, phải chuẩn bị ngay giấy quyết định xử lý biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu rõ tóm tắt về tội phạm và lý do cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Khoản 2 và Khoản 3 Điều 8.2 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Trường hợp được chuyển tiếp
· Các sĩ quan cảnh sát tư pháp phải kịp thời điều tra tội phạm bạo lực gia đình và chuyển vụ việc cho các kiểm sát viên (Phần trước Điều 7 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
Cấp kiểm sát
- Yêu cầu các biện pháp tạm thời
· Nếu kiểm sát viên nhận thấy tội phạm bạo lực gia đình có nguy cơ tái diễn thì có thể yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp tạm thời sau đây một cách đương nhiên hoặc theo yêu cầu của sĩ quan cảnh sát tư pháp (Khoản 1 Điều 8 và Điểm 1, Điểm 2, Điểm 3 Khoản 1 Điều 29 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
1. Cách ly, bao gồm cả đuổi ra khỏi nơi ở hoặc phòng ở của nạn nhân hoặc thành viên gia đình
2. Cấm tiếp cận trong phạm vi 100 mét tính từ nơi ở, nơi làm việc, v.v. của nạn nhân hoặc thành viên gia đình
3. Cấm sử dụng viễn thông để tiếp cận nạn nhân hoặc thành viên gia đình (Điểm 1 Điều 2 Luật khung về Điện tử viễn thông)
· Nếu kiểm sát viên nhận thấy có nguy cơ tội phạm bạo lực gia đình tái diễn do người phạm tội bạo lực gia đình vi phạm các biện pháp tạm thời nêu trên thì công tố viên có thể yêu cầu Tòa án một cách đương nhiên, thực hiện các biện pháp tạm thời để tạm giữ tội phạm bạo lực gia đình tại trại tạm giam hoặc tại đồn cảnh sát (Khoản 2 Điều 8 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời theo biện pháp khẩn cấp tạm thời của cảnh sát tư pháp
· Khi sĩ quan cảnh sát tư pháp thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời, phải nộp đơn xin các biện pháp tạm thời cho kiểm sát viên ngay lập tức (Tham khảo Khoản 1 Điều 8.3 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
· Kiểm sát viên khi nhận được đơn xin áp dụng biện pháp tạm thời từ sĩ quan cảnh sát tư pháp phải yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp tạm thời bằng cách gửi kèm quyết định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vòng 48 giờ kể từ khi sĩ quan cảnh sát tư pháp thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời (Tham khảo Khoản 1 Điều 8.3 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
√ Khi công tố viên không yêu cầu xử lý tạm thời hoặc Tòa án không quyết định xử lý tạm thời, phải hủy bỏ xử lý tạm thời khẩn cấp ngay lập tức (Khoản 2 Điều 8.3 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Kết thúc điều tra và truy tố v.v
· Công tố viên cân nhắc các yếu tố như tính chất, động cơ, kết quả, hành vi của người phạm tội bạo hành gia đình v.v để xử lý vấn đề như sau đây.
Trì hoãn truy tố với điều kiện tư vấn
|
Trường hợp xác nhận sự thật về tội phạm bạo lực gia đình nhưng chưa đủ cơ sở để xử phạt hình sự và khi xét thấy cần phải điều chỉnh hành vi của người phạm tội bạo lực gia đình (Điều 9.2 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
|
Truy tố hình sự
|
Trường hợp vụ việc phải xử lý hình sự (Điều 246 Luật Tố tụng hình sự) ※ Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vụ việc, có thể yêu cầu một lệnh tóm tắt như phạt tiền (Điều 448 và Điều 449 Luật Tố tụng hình sự)
|
Xử lý vụ án bảo vệ gia đình
|
Trường hợp nhận thấy việc bảo vệ theo Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình được coi là phù hợp, sau khi đã xem xét đến các yếu tố tính chất vụ việc, động cơ và kết quả, hành vi của người phạm tội bạo lực gia đình ở vụ việc sau đây (Điều 9 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình. 1. Trường hợp không có tố cáo của người bị hại hoặc khi phải có tố cáo của người bị hại thì mới có thể khởi kiện 2. Trường hợp nạn nhân bày tỏ rõ suy nghĩ không mong muốn trừng phạt hoặc thu hồi suy nghĩ mong muốn trừng phạt khi tội phạm bạo lực gia đình không thể bị truy tố trái với ý chí rõ ràng của nạn nhân
|
Cấp Toà án: Xử lý vụ án bảo vệ gia đình
※ Nếu bị khởi tố hình sự, Tòa án sẽ tiến hành vụ việc theo các thủ tục được quy định trong Luật Tố tụng hình sự và sau đó sẽ xử phạt như hưởng án treo, phạt tiền hoặc phạt tù. Hãy cùng tìm hiểu về thủ tục xử lý vụ án bảo vệ gia đình tại Tòa án Gia đình theo Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình dưới đây.
- Điều tra, điều trần
· Nếu xét thấy cần thiết cho cuộc điều tra, điều trần của vụ án bảo vệ gia đình, thẩm phán có thể ấn định ngày và triệu tập người phạm tội bạo lực gia đình, nạn nhân, thành viên gia đình hoặc các nhân chứng khác, nếu người phạm tội không phản hồi triệu tập mà không có lý do chính đáng thì có thể bị ban hành lệnh bắt giữ (Điều 24 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
· Phiên điều trần về các vụ án bảo vệ gia đình có thể được tổ chức không công khai (Điều 32 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình, trừ khi có lý do đặc biệt, quyết định xử lý phải được đưa ra trong vòng 3 tháng kể từ ngày bàn giao hoặc nhận bàn giao (Điều 38 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Biện pháp tạm thời
· Nếu thẩm phán thấy cần thiết để việc điều tra, điều trần vụ án bảo vệ gia đình diễn ra suôn sẻ hoặc để bảo vệ nạn nhân, thẩm phán có thể thực hiện bất kỳ biện pháp tạm thời nào sau đây đối với người phạm tội bạo lực gia đình theo quyết định của mình (Khoản 1 Điều 29 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
1. Cách ly, bao gồm cả đuổi ra khỏi nơi ở hoặc phòng ở của nạn nhân hoặc thành viên gia đình
2. Cấm tiếp cận trong phạm vi 100 mét tính từ nơi ở, nơi làm việc, v.v. của nạn nhân hoặc thành viên gia đình
3. Cấm sử dụng viễn thông để tiếp cận nạn nhân hoặc thành viên gia (Điểm 1 Điều 2 Luật khung về Điện tử viễn thông)
4. Ủy thác cho cơ sở y tế hoặc viện dưỡng lão khác
5. Tạm giam tại trại tạm giam hoặc buồng giam tại đồn cảnh sát
6. Ủy thác tư vấn cho các trung tâm tư vấn
※ Thời gian cho các biện pháp tạm thời từ mục 1 đến 3 ở trên không quá 2 tháng (có thể kéo dài 2 lần, tối đa 6 tháng), thời gian cho các biện pháp tạm thời mục 4 và 5 không quá 1 tháng (có thể kéo dài 1 lần, tối đa 2 tháng) (Nội dung chính Khoản 5 Điều 29 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Quyết định không xử lý
· Thẩm phán không đưa ra quyết định xử lý nếu kết quả điều trần không ứng với một trong những điều sau đây (Khoản 1 Điều 37 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
1. Trường hợp xét thấy không thể xử lý bảo vệ hoặc không cần bảo vệ
2. Trường hợp xét thấy không phù hợp để xử lý như một vụ án bảo vệ gia đình vì tính chất, động cơ, kết quả cũng như hành vi, thói quen của người phạm tội v.v.
- Xử lý bảo vệ
· Trường hợp xét thấy cần phải xử lý bảo hộ theo kết quả điều trần, thẩm phán có thể áp dụng biện pháp xử lý một hoặc từ hai nội dung trở lên sau đây (Điều 40 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
1. Hạn chế hành vi người phạm tội bạo lực gia đình đến gần nạn nhân hoặc thành viên gia đình
2. Hạn chế hành vi người phạm tội bạo lực gia đình sử dụng điện tử viễn thông (Điểm 1 Điều 2 Luật khung về Điện tử viễn thông) để tiếp cận nạn nhân hoặc thành viên gia đình
3. Hạn chế hành vi người phạm tội bạo lực gia đình thực hiện quyền giám hộ đối với nạn nhân khi người phạm tội là người có quyền giám hộ của nạn nhân (với trường hợp này, có thể chuyển người bị hại về cơ sở của người có quyền giám hộ khác hoặc họ hàng phù hợp)
4. Ban lệnh tham gia tình nguyện, lệnh tham dự khóa học theo Luật liên quan đến quan sát bảo vệ
5. Quan sát bảo vệ theo Luật liên quan đến quan sát bảo vệ
6. Ủy thác giám hộ cho cơ sở bảo vệ trực thuộc Bộ Tư pháp hoặc cơ sở bảo vệ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định
7. Ủy thác chữa trị cho cơ quan y tế
8. Ủy thác tư vấn cho các trung tâm tư vấn
※ Trừ mục 4 ở trên, thời gian xử lý bảo vệ cho các mục còn lại không quá 6 tháng (có thể gia hạn 1 lần, dài nhất là 1 năm) và thời gian tình nguyện, lệnh tham gia khóa học ở mục 4 phía trên không quá 200 giờ (có thể gia hạn 1 lần, dài nhất là 400 giờ) (Điều 41 và Điều 45 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
· Trường hợp không thi hành ngay cả khi đã nhận xử lý bảo vệ tương ứng ở mục 1 và 3 phía trên, sẽ bị phát tù tối đa 2 năm hoặc phạt tiền tối đa 20 triệu won hoặc bị tạm giam (Điểm 1 Khoản 1 Điều 63 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Kháng cáo, tái kháng cáo
· Với những trường hợp sau, có thể kháng cáo lên Văn phòng Thỏa thuận Tòa án Gia đình (hoặc Văn phòng Thỏa thuận Tòa án Địa phương, áp dụng cho phía dưới) (Điều 49 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
Lý do kháng cáo
|
Người kháng cáo
|
Đối với biện pháp tạm thời, xử lý bảo vệ, thay đổi/hủy xử lý bảo vệ, trường hợp có vi phạm sắc lệnh, hiểu sai sự thật nghiêm trọng hoặc quyết định không công bằng gây ảnh hưởng tới các quyết định trên
|
Công tố viên, người phạm tội bạo lực gia đình, người đại diện hợp pháp và người hỗ trợ
|
Trường hợp quyết định không xử lý của Tòa án không công bằng
|
Công tố viên, nạn nhân và người đại diệp hợp pháp của nạn nhân
|
· Đối với những quyết định bãi bỏ kháng cáo, chỉ có thể tái kháng cáo lên Tòa án tối cao với trường hợp quyết định đó vi phạm pháp lệnh (Khoản 1 Điều 52 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
- Đề nghị bồi thường
· Nạn nhân có thể đề nghị lệnh bồi thường hoặc chi trả về mặt tiền bạc như sau ở phiên tòa xét xử lần 1 trong vụ án bảo vệ gia đình, Tòa án vẫn có thể ra lệnh bồi thường theo thẩm quyền của mình ngay cả khi nạn nhân không đề nghị (Điều 56 và Điều 57 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
1. Chi trả về mặt tiền bạc, cần thiết để chăm sóc nạn nhân hoặc thành viên gia đình
2. Bồi thường cho những thiệt hại vật lý trực tiếp và tổng thất chi phí điều trị phát sinh do vụ án bảo vệ gia đình gây ra
· Lệnh bồi thường phải được diễn ra đồng thời với quyết định xử lý bảo vệ, và có thể tuyên bố thi hành án tạm thời (Điều 58 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình).
· Do bản phán quyết xử lý bảo vệ có ghi rõ lệnh bồi thường được tuyên bố thi hành án tạm thời hoặc lệnh bồi thường được quyết định, có hiệu lực như bản phán quyết chấp hành liên quan đến thi hành cưỡng chế theo Luật Thi hành dân sự (Khoản 1 Điều 61 Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình), nên nếu người phạm tội bạo lực gia đình không thi hành lệnh bồi thường, có thể thực hiện quyền lợi thông qua thi hành cưỡng chế.
Tham khảo: Bạo lực gia đình và bồi thường tổn thất dân sự
|
Nạn nhân phải chịu đau đớn về tinh thần do bạo lực gia đình có thể yêu cầu người phạm tội bạo hành gia đình bồi thường tổn thất cho những đau khổ về tinh thần, tách riêng với khởi tố theo Luật về trường hợp đặc biệt liên quan đến xử phạt tội bạo hành gia đình (Điều 750 và Điều 751 Luật Dân sự).
|