Cưỡng chế thi hành chi trả phí cấp dưỡng nuôi con
Phương pháp cưỡng chế thi hành chi trả phí cấp dưỡng nuôi con
- Nếu không chi trả phí cấp dưỡng nuôi con, có thể bị buộc phải chi trả phí cấp dưỡng nuôi con bằng các phương thức như chế độ yêu cầu trực tiếp chi trả, chế độ chi trả toàn bộ bằng tài sản thế chấp, yêu cầu thi hành và cưỡng chế thi hành, v.v.
Hỗ trợ cưỡng chế thi hành chi trả chi phí cấp dưỡng nuôi con
- Nếu người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con không nhận được khoản tiền cấp dưỡng nuôi con đã xác định theo thỏa thuận hoặc phán quyết của Tòa án từ người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con, có thể nộp đơn lên Viện quản lý thi hành cấp dưỡng nuôi con yêu cầu hỗ trợ pháp lý cần thiết (Khoản 1 Điều 7 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con) để đảm bảo thi hành cấp dưỡng nuôi con như sau (Khoản 2 Điều 11 và Khoản 1 Điều 18 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
· Đề nghị kê khai tài sản hoặc truy vấn tài sản
· Đề nghị ra lệnh trực tiếp chi trả phí cấp dưỡng nuôi con
· Đề nghị cung cấp tài sản thế chấp cấp dưỡng nuôi con
· Đề nghị yêu cầu thi hành cấp dưỡng nuôi con
· Đề nghị ra lệnh tịch thu
· Đề nghị thu hồi hoặc ra lệnh chuyển giao
· Đề nghị ra lệnh bắt giam, v.v.
- Ngoài ra, cha, mẹ nuôi con có thể nộp đơn lên Viện quản lý thi hành cấp dưỡng nuôi con để yêu cầu hỗ trợ thu hồi số tiền được nhận và các tài sản khác của người cần trả (Khoản 2 Điều 11 và Khoản 1 Điều 19 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
Hỗ trợ khẩn cấp phí cấp dưỡng nuôi con tạm thời
- Người được nhận phí cấp dưỡng con đã nộp đơn xin hỗ trợ pháp lý để yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và thi hành có thể yêu cầu hỗ trợ khẩn cấp phí cấp dưỡng nuôi con tạm thời (sau đây gọi là “hỗ trợ khẩn cấp”) từ Viện quản lý thi hành cấp dưỡng nuôi con nếu phúc lợi của con có nguy cơ bị ảnh hưởng hoặc đã bị ảnh hưởng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (Khoản 1 Điều 14 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
- Nếu đối tượng hỗ trợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, có thể nhận được hỗ trợ khẩn cấp trong tối đa 9 tháng (có thể gia hạn trong phạm vi 3 tháng nếu cần hỗ trợ thêm) (Nội dung chính Khoản 2, nội dung chính Khoản 3 Điều 14 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con và Khoản 1 Điều 8 Nghị định thi hành Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
· Trường hợp thu nhập của hộ gia đình có người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con dưới 50/100 mức thu nhập trung bình tiêu chuẩn theo Điểm 11 Điều 2 Luật đảm bảo sinh hoạt cơ bản quốc dân
· Trường hợp người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con là đối tượng được hỗ trợ theo Điều 5 và Điều 5.2 của Luật hỗ trợ gia đình đơn thân, đáp ứng các tiêu chuẩn do Bộ trưởng Bộ Bình đẳng giới và Gia đình quy định và công bố
- Tuy nhiên, nếu đối tượng được hỗ trợ đang nhận sự bảo vệ tương tự theo Luật đảm bảo sinh hoạt cơ bản quốc dân và Luật hỗ trợ phúc lợi khẩn cấp thì không được hỗ trợ khẩn cấp theo Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con. Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chi trả phí cấp dưỡng nuôi con thì hỗ trợ khẩn cấp sẽ lập tức chấm dứt (Quy định Khoản 2 và quy định Khoản 3 Điều 14 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
※ Nội dung chi tiết về hỗ trợ cưỡng chế thi hành chi trả phí cấp dưỡng nuôi con và hỗ trợ khẩn cấp phí cấp dưỡng nuôi con tạm thời, có thể tham khảo tại Viện quản lý thi hành cấp dưỡng nuôi con (
www.childsupport.or.kr).
Đề nghị trực tiếp chi trả chi phí cấp dưỡng nuôi con
Lệnh trực tiếp chi trả chi phí cấp dưỡng nuôi con
- Trường hợp người có nghĩa vụ chi trả phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ (sau đây gọi là “người cần trả phí cấp dưỡng”) không chi trả phí cấp dưỡng nuôi con quá 2 lần mà không có lý do chính đáng, Tòa án Gia đình có thể ra lệnh trực tiếp chi trả cho người nhận phí cấp dưỡng nuôi con (sau đây gọi là “người nhận phí cấp dưỡng nuôi con”) bằng cách khấu trừ phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ trong tiền lương của người cần trả phí cấp dưỡng cho người có nghĩa vụ trưng thu thuế thu nhập (sau đây gọi là “người có nghĩa vụ trưng thu thuế thu nhập”), là người có nghĩa vụ trả lương định kỳ cho người cần trả phí cấp dưỡng, theo đề nghị của người nhận phí cấp dưỡng nuôi con có quyền yêu cầu thực hiện về việc chi trả phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ (Khoản 1 Điều 63.2 Luật Tố tụng gia đình).
· Đề nghị ra lệnh chi trả trực tiếp phí cấp dưỡng nuôi con bao gồm các điều khoản sau trong đơn đăng ký và đính kèm vào bản chính có khả năng thi hành (Điều 120.4 Quy tắc tố tụng gia đình).
1. Nêu rõ người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con, người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con, người có nghĩa vụ trưng thu thuế thu nhập và người đại diện, con là trẻ vị thành niên
2. Nêu rõ quyền yêu cầu thực hiện
3. Nội dung cụ thể về việc phí cấp dưỡng nuôi con chưa được chi trả 2 lần trở lên và nội dung cụ thể về việc nhận phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ được yêu cầu thanh toán trực tiếp và chưa đến hạn
4. Khi lệnh chi trả trực tiếp chỉ được áp dụng cho một phần yêu cầu phí cấp dưỡng nuôi con được nêu trong quyền yêu cầu thực hiện, hoặc phạm vi khi lệnh chi trả trực tiếp chỉ áp dụng cho một phần của yêu cầu mục tiêu
· Nếu đương sự hoặc người có liên quan vi phạm lệnh chi trả trực tiếp phí cấp dưỡng nuôi con mà không có lý do chính đáng, Tòa án Gia đình, Ủy ban hòa giải hoặc thẩm phán phụ trách hòa giải có thể phạt tiền tối đa 10 triệu won theo thẩm quyền hoặc theo yêu cầu của người có quyền (Khoản 1 Điều 67 Luật Tố tụng gia đình).
- Nếu có tình tiết cho thấy lệnh chi trả trực tiếp phí cấp dưỡng nuôi con không thể đạt được mục đích, Tòa án Gia đình có thể hủy bỏ lệnh chi trả trực tiếp phí cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con, trong trường hợp này, lệnh chi trả trực tiếp phí cấp dưỡng nuôi con sẽ mất hiệu lực trong tương lai (Khoản 3 Điều 63.2 Luật Tố tụng gia đình).
- Tòa án Gia đình phải gửi lệnh chi trả trực tiếp phí cấp dưỡng nuôi con hoặc lệnh hủy bỏ cho người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con và người có nghĩa vụ trưng thu thuế thu nhập (Khoản 4 Điều 63.2 Luật Tố tụng gia đình).
- Đối với phán quyết liên quan đến lệnh chi trả trực tiếp hoặc đề nghị lệnh hủy bỏ phí cấp dưỡng nuôi con, có thể kháng cáo ngay lập tức bằng cách gửi đơn kháng cáo tới Tòa án Gia đình đã ra phán quyết trong vòng 1 tuần kể từ ngày thông báo (Khoản 5 Điều 63.2 Luật Tố tụng gia đình, Điều 120.6 Quy tắc Tố tụng gia đình).
- Trường hợp phát sinh lý do dẫn đến thay đổi nguồn thu nhập chính, như thay đổi nơi làm việc của người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con, người có nghĩa vụ trưng thu thuế thu nhập phải thông báo cho Tòa án gia đình về sự thay đổi đó trong vòng 1 tuần kể từ ngày phát sinh lý do (Khoản 6 Điều 63.2 Luật Tố tụng gia đình).
Lệnh cung cấp tài sản đảm bảo thế chấp và chi trả toàn bộ
Lệnh cung cấp tài sản đảm bảo thế chấp và chi trả toàn bộ
- Trường hợp cần yêu cầu chi trả phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ, hoặc trường hợp người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con không chi trả tiền cấp dưỡng nuôi con mà không có lý do chính đáng, Tòa án Gia đình có thể yêu cầu người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con cung cấp tài sản thế chấp tương đương để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (Khoản 1 và Khoản 2 Điều 63.3 Luật Tố tụng gia đình).
· Trường hợp người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con không thi hành mà không có lý do chính đáng và nộp đơn yêu cầu cung cấp tài sản thế chấp, người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con phải viết các thông tin sau và nộp đơn ghi tên và đóng dấu hoặc có chữ ký của người nộp đơn hoặc người đại diện cho Tòa án Gia đình tại nơi có phiên tòa chung của trẻ vị thành niên (Điều 120.7 và 120.8 Quy tắc Tố tụng gia đình).
1. Ghi rõ người nộp đơn, người được nộp đơn và người đại diện, con là trẻ vị thành niên
2. Ghi rõ quyền yêu cầu thực hiện và nội dung
3. Số tiền cần trả và thời gian người cần trả chưa thi hành
4. Mục đích đăng ký và lý do đăng ký
· Người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con có thể nộp đơn kháng cáo ngay lập tức đối với lệnh cung cấp tài sản đảm bảo nêu trên trong vòng 1 tuần kể từ ngày được thông báo về phiên tòa (Khoản 3 Điều 63.3 Luật Tố tụng gia đình, Khoản 1 Điều 120.9 Quy tắc Tố tụng gia đình).
· Kháng cáo ngay lập tức có tác dụng đình chỉ việc thi hành lệnh cung cấp tài sản đảm bảo (Khoản 2 Điều 120.9 Quy tắc Tố tụng gia đình).
- Nếu người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con vi phạm lệnh cung cấp tài sản đảm bảo mà không có lý do chính đáng, Tòa án Gia đình, Ủy ban hòa giải hoặc thẩm phán phụ trách hòa giải có thể phạt tiền tối đa 10 triệu won theo thẩm quyền hoặc theo yêu cầu của người có quyền (Khoản 1 Điều 67 Luật Tố tụng gia đình).
- Nếu người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con không cung cấp tài sản đảm bảo trong thời gian yêu cầu, Tòa án Gia đình có thể ra lệnh chi trả toàn bộ hoặc một phần phí cấp dưỡng nuôi con theo đề nghị của người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con (Khoản 4 Điều 63.3 Luật Tố tụng gia đình).
· Đề nghị yêu cầu chi trả toàn bộ phí cấp dưỡng nuôi con phải được lập bằng văn bản có các nội dung sau và được người nộp đơn hoặc người đại diện đóng dấu hoặc ký tên (Điều 120.7 và Điều 120.10 Quy tắc tố tụng gia đình).
1. Ghi rõ người nộp đơn, người được nộp đơn và người đại diện, con là trẻ vị thành niên
2. Ghi rõ quyền yêu cầu thực hiện và nội dung
3. Ghi rõ lệnh cung cấp tài sản đảm bảo và nội dung
4. Mục đích đăng ký và lý do đăng ký
· Trường hợp người được yêu cầu chi trả toàn bộ số tiền cấp dưỡng nuôi con không thực hiện nghĩa vụ trong vòng 30 ngày mà không có lý do chính đáng, Tòa án Gia đình có thể giam giữ người có nghĩa vụ trong vòng 30 ngày cho đến khi thực hiện nghĩa vụ theo quyết định dựa vào đề nghị của người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con (Điểm 3 Khoản 1 Điều 68 Luật Tố tụng gia đình).
√ Bộ trưởng Bộ Bình đẳng giới và Gia đình có thể yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban sẽ lệnh cấm xuất cảnh theo Khoản 3 Điều 4 của Luật quản lý xuất nhập cảnh sau khi tham khảo, lắng nghe ý kiến từ Ủy ban thẩm định việc thi hành cấp dưỡng nuôi con đối với những người sau trong số những người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con dù đã nhận được lệnh tạm giam theo Điểm 3 Khoản 1 Điều 68 Luật Tố tụng gia đình (Khoản 1 Điều 21.4 Luật về việc đảm bảo thị hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con và Khoản 1 Điều 17.3 Nghị định thi hành Luật về việc đảm bảo thị hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
1. Người có khoản nợ cấp dưỡng nuôi con từ 50 triệu won trở lên
2. Người có khoản nợ cấp dưỡng nuôi con từ 30 triệu won trở lên và đã ra nước ngoài hơn 3 lần hoặc ở nước ngoài hơn 6 tháng trong năm qua tính đến ngày yêu cầu cấm xuất cảnh
√ Trường hợp gỡ bỏ lý do cấm xuất cảnh do thi hành chi trả phí cấp dưỡng nuôi con do cưỡng chế thực hiện đối với tài sản của người cần trả phí cấp dưỡng nuôi con, Bộ trưởng Bộ Bình đẳng giới và Gia đình phải ngay lập tức yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp dỡ bỏ lệnh cấm xuất cảnh (Khoản 3 Điều 21.4 Luật về việc đảm bảo thị hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
· Có thể nộp đơn kháng cáo ngay lập tức đối với quyết định giam giữ nêu trên (Khoản 2 Điều 68 Luật Tố tụng gia đình).
Lệnh thi hành
Thế nào là lệnh thi hành?
- Lệnh thi hành là việc thi hành các nghĩa vụ về tài sản như trả tiền, nghĩa vụ bàn giao con cái hoặc nghĩa vụ cho phép gặp gỡ thăm nom con theo bản án, phán quyết, điều tra hòa giải, hòa giải của Tòa án Gia đình. Nếu người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ mà không có lý do chính đáng, Tòa án Gia đình sẽ ra lệnh thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn nhất định theo yêu cầu của đương sự (Khoản 1 Điều 64 Luật Tố tụng gia đình).
Đề nghị lệnh thi hành do không tuân thủ nghĩa vụ chi trả phí cấp dưỡng nuôi con
- Nếu đối phương không chi trả phí cấp dưỡng nuôi con, có thể nộp đơn xin lệnh thực hiện lên Tòa án Gia đình đã đưa ra bản án, phán quyết hoặc hòa giải để ra lệnh chi trả phí cấp dưỡng nuôi con, và yêu cầu tòa án ra lệnh cho đối phương thực hiện nghĩa vụ đối với việc chi trả phí cấp dưỡng nuôi con.
Chế tài đối với hành vi không thực hiện lệnh thi hành
- Nếu người có nghĩa vụ chi trả phí cấp dưỡng nuôi con không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con ngay cả khi đã nhận được lệnh thi hành, Tòa án Gia đình có thể buộc thực hiện theo các cách sau.
· Áp dụng phạt tiền
√ Nếu người có nghĩa vụ không chi trả phí cấp dưỡng nuôi con mà không có lý do chính đáng ngay cả khi đã nhận được lệnh chi trả phí cấp dưỡng nuôi con, Tòa án Gia đình, Ủy ban hòa giải hoặc thẩm phán phụ trách hòa giải có thể phạt tiền tối đa 10 triệu won theo thẩm quyền hoặc theo yêu cầu của người có quyền (Khoản 1 Điều 67 Luật Tố tụng gia đình).
· Tạm giam
√ Nếu không thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con dù đã nhận được lệnh tạm giam do không thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, Ủy ban sẽ thẩm tra, quyết định về đơn đề nghị của người được nhận phí cấp dưỡng nuôi con và có thể công khai các thông tin sau trong 3 năm kể từ ngày công khai (Nội dung chính Khoản 1 Điều 21.5 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con, Khoản 1 Điều 17.4 Nghị định thi hành Luật về việc đảm bảo thị hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
1. Họ tên, tuổi và nghề nghiệp của người cần chi trả phí cấp dưỡng nuôi con
2. Địa chỉ hoặc nơi làm việc của người cần chi trả phí cấp dưỡng nuôi con (tối đa đến số của tòa nhà theo Điểm 7 và địa chỉ tên đường theo Điểm 5 Điều 2 Luật Địa chỉ tên đường)
3. Thời hạn không thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và số tiền của nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
√ Tuy nhiên, thông tin sẽ không được tiết lộ trong các trường hợp sau (Khoản 1 Điều 21.5 Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con và Khoản 2 Điều 17.4 Nghị định thi hành Luật về việc đảm bảo thi hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
1. Trường hợp người cần chi trả phí cấp dưỡng nuôi con qua đời hoặc bị tuyên bố mất tích theo Điều 27 Luật Dân sự
2. Trường hợp người cần chi trả phí cấp dưỡng nuôi con trả hơn một nửa số tiền cấp dưỡng nuôi con và nộp kế hoạch chi trả số tiền còn lại, được Ủy ban xét thấy cần loại khỏi danh sách công khai
3. Trường hợp người cần chi trả phí cấp dưỡng nuôi con nhận được quyết định bắt đầu thủ tục khôi phục theo Luật liên quan đến khôi phục và phá sản đối với người mắc nợ
4. Trường hợp Ủy ban xác định rằng việc tiết lộ thông tin cá nhân là không hiệu quả
√ Người dù đã nhận được lệnh tạm giam nhưng không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con trong vòng 1 năm kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam mà không có lý do chính đáng có thể bị phạt tù tối đa 1 năm hoặc phạt tiền tối đa 10 triệu won. Tuy nhiên, không thể khởi tố theo ý định đã đưa ra của người bị hại (Điểm 2 Khoản 2 Điều 27 Luật về việc đảm bảo thị hành và hỗ trợ phí cấp dưỡng nuôi con).
※ Thế nào là giam giữ?
· Giam giữ là việc người có quyền nộp đơn yêu cầu xét xử giam giữ đổi với người có nghĩa vụ đã vi phạm lệnh của tòa án, và giam giữ người có nghĩa vụ tại một cơ sở giam giữ như trại giam đồn cảnh sát, nhà tù hoặc trung tâm tạm giam theo quyết định của Tòa án (Điều 70 Luật Tố tụng gia đình, Điều 130, Điều 132 Quy tắc Tố tụng gia đình và Khoản 1 Điều 23
Quy tắc liên quan đến xét xử để duy trì trật tự tại òa án). Người có nghĩa vụ sẽ được thả ra nếu thi hành nghĩa vụ đó trong thời gian bị giam giữ (Khoản 2 Điều 137 Quy tắc Tố tụng gia đình).
Cưỡng chế thi hành
Thế nào là cưỡng chế thi hành án?
- Cưỡng chế thi hành án là việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ bằng quyền lực nhà nước khi đối phương không thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ, trường hợp người có nghĩa vụ cần thi hành nghĩa vụ chi trả phí cấp dưỡng nuôi con không chi trả phí cấp dưỡng nuôi con, người có quyền có thể buộc người có nghĩa vụ bán đấu giá tài sản của người đó để chi trả bổ sung phí cấp dưỡng nuôi con.
Đề nghị cưỡng chế thi hành đối với việc không thực hiện nghĩa vụ chi trả phí cấp dưỡng nuôi con
- Nếu đối phương không chi trả phí cấp dưỡng nuôi con, dựa trên căn cứ là quyền thi hành (ví dụ phán quyết, hồ sơ hòa giải, hồ sơ giảng hòa v.v) có thể nhận lệnh thực hiện cưỡng chế thi hành, sau đó xin cưỡng chế thi hành đối với tài sản của đối phương, bán đấu giá các tài sản đó để nhận tiền cấp dưỡng nuôi con (Điều 28, Điều 39, Điều 56, Điều 90 Luật Thi hành án dân sự và Điều 41 Luật Tố tụng gia đình).