Điều kiện xác lập thuận tình ly hôn
Điều kiện thực tế
- Phải có sự đồng ý thực sự về ý định ly hôn
· Để một cặp vợ chồng có thể thuận tình ly hôn thì họ phải đồng ý ly hôn với ý định thực sự của mình. Trường hợp này là đủ để thuận tình ly hôn theo ý muốn của hai bên và sẽ không hỏi lý do ly hôn (ví dụ tính cách không hợp nhau, bất hòa, vấn đề tài chính v.v.).
· Ý định ly hôn phải tồn tại không chỉ khi xin xác nhận ý định ly hôn lên Tòa án Gia đình mà còn phải tồn tại cho đến khi đơn khai báo ly hôn được chấp nhận. Ví dụ, ngay cả khi ý định ly hôn theo sự đồng ý của cả hai bên được Tòa án Gia đình xác nhận, nếu ý định ly hôn được rút lại trước khi đơn khai báo ly hôn được chấp nhận thì việc ly hôn sẽ không được xác lập.
- Có năng lực tư duy
· Phải có năng lực tư duy trong việc đồng ý ly hôn. Theo đó, nếu người mất năng lực hành vi dân sự có thể đưa ra suy nghĩ của mình thì cũng có thể ly hôn sau khi nhận được sự đồng thuận từ bố mẹ hoặc người giám hộ (Khoản 2 Điều 808 và 835 Luật Dân sự).
※ Khi người chưa thành niên kết hôn phải được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ, tuy nhiên, vì người đó được coi là người trưởng thành khi kết hôn (Điều 826.2 Luật Dân sự) nên người đó có thể tự do ly hôn mà không có sự đồng ý của cha mẹ mình.
- Được hướng dẫn liên quan đến ly hôn
· Các cặp đôi đã nộp đơn xin xác nhận ý định ly hôn theo thỏa thuận phải được hướng dẫn về ly hôn do Tòa án Gia đình cung cấp và nếu cần thiết, Tòa án Gia đình có thể đề nghị các bên nhận tư vấn từ một cố vấn chuyên nghiệp có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn về tư vấn (Khoản 1 Điều 836.2 Luật Dân sự).
- Nhận xác nhận ý định ly hôn sau thời gian xem xét ly hôn
· Cặp vợ chồng sau khi nhận được hướng dẫn ly hôn từ Tòa án có thể xác nhận ly hôn sau thời hạn xem xét ly hôn như sau kể từ ngày được hướng dẫn (Khoản 2 Điều 836.2 Luật Dân sự).
1. Trường hợp có con phải nuôi (kể cả con đang được mang thai cũng áp dụng tương tự): 3 tháng
2. Trường hợp không có con phải nuôi: 1 tháng
· Tuy nhiên, trong trường hợp có tình tiết cấp bách cần phải ly hôn, chẳng hạn như vợ hoặc chồng phải chịu đau đớn không thể chịu đựng được do bị bạo lực thì thời hạn trên có thể được rút ngắn hoặc miễn (Khoản 3 Điều 836.2 Luật Dân sự).
- Nộp đơn thỏa thuận về quyền giám hộ và quyền nuôi con
· Nếu có con cái cần được nuôi dưỡng (không bao gồm con đã đến tuổi trưởng thành trong thời gian xem xét ly hôn), phải nộp thỏa thuận về quyền giám hộ và quyền nuôi con hoặc bản chính phán quyết của Tòa án Gia đình khi nộp đơn xin xác nhận ý định thuận tình ly hôn hoặc cho đến ngày có xác nhận ly hôn (Khoản 4 Điều 836.2 Luật Dân sự và Khoản 4 Điều 73 Quy tắc Liên quan đến đăng ký quan hệ gia đình).
· Nếu vợ chồng muốn ly hôn theo thỏa thuận và có thống nhất về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, thì Tòa án Gia đình phải lập báo cáo về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con để xác nhận nội dung đó. Điều này nhằm đảm bảo hiệu quả việc cấp dưỡng nuôi con trong trường hợp ly hôn và khi đó, báo cáo trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con có hiệu lực của nghĩa vụ tài chính (Khoản 5 Điều 836.2 Luật Dân sự, Điều 41 Luật Tố tụng gia đình).
· Nếu không có thống nhất giữa hai vợ chồng về quyền giám hộ và quyền nuôi con, Tòa án Gia đình có thể quyết định theo thẩm quyền (Khoản 4 Điều 837 và Khoản 4 Điều 909 Luật Dân sự).
Điều kiện hình thức: Khai báo ly hôn
- Kể cả khi đáp ứng được các điều kiện thực tế nêu trên thì việc ly hôn theo thỏa thuận cũng không được xác lập nếu không khai báo ly hôn (Khoản 1 Điều 836 Luật Dân sự). Nói cách khác, nếu một cặp vợ chồng đồng ý ly hôn nhưng không khai báo việc ly hôn thì quan hệ hôn nhân của họ vẫn tiếp tục hợp pháp ngay cả khi họ đã không sống chung trong thời gian dài và đã ly hôn thực tế.
- Khai báo ly hôn phải được thực hiện trong vòng 3 tháng kể từ ngày một trong hai vợ chồng được cấp hoặc nhận bản sao xác nhận của Tòa án Gia đình, và phải đính kèm bản sao đó để nộp cho văn phòng Thị chính, quận, thị trấn hoặc xã ở địa chỉ cư trú, nếu quá thời hạn này, xác nhận của Tòa án Gia đình sẽ mất hiệu lực (Điều 75 Luật pháp Liên quan đến đăng ký quan hệ gia đình và Điều 79 Quy tắc Liên quan đến đăng ký quan hệ gia đình).
Thông tin hữu ích
|
<Hiệu lực của ly hôn giả tạo> ·Ly hôn giả tạo là việc ly hôn trong đó cặp vợ chồng không có ý định ly hôn thực sự nhưng đồng ý tạm thời ly hôn vì các mục đích như tránh nợ nần hoặc di cư ra nước ngoài. ·Theo án lệ, với tầm quan trọng của khai báo ly hôn, việc ly hôn giả tạo chỉ vô hiệu khi có bằng chứng cho thấy không có sự thỏa thuận ly hôn ở mức độ mà ai cũng có thể hiểu được, nếu việc ly hôn theo thỏa thuận được khai báo theo sự thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết quan hệ hôn nhân một cách hợp pháp, dù là tạm thời thì việc ly hôn được coi là hợp pháp (Phán quyết số 93 Meu 171 của Tòa án tối cao ngày 11.06.1993, Phán quyết số 76 Do 107 của Tòa án tối cao ngày 14.09.1976). <Hiệu lực của ly hôn do gian lận, cưỡng ép> ·Nếu ý định ly hôn được thể hiện do gian lận, cưỡng ép thì việc ly hôn có thể bị hủy bỏ (Điều 838 và Điều 839 Luật Dân sự). ·Theo án lệ, việc xác nhận ý định thuận tình ly hôn dựa trên sự thỏa thuận của các bên, vai trò của Tòa án chỉ giới hạn trong việc xác nhận và chứng minh ý định đó của họ nên hiệu lực của việc thuận tình ly hôn phải được xác định bằng nguyên tắc của Luật Dân sự, nếu việc thể hiện ý định ly hôn được thực hiện thông qua gian lận hoặc cưỡng ép thì căn cứ theo Điều 838 Luật Dân sự, việc ly hôn có thể hủy bỏ (Phán quyết số 86 Meu 86 của Tòa án tối cao ngày 20.01.1987).
|